ĐOÀN QUÝ PHI (Danh nhân thời Vua Lê – Chúa Trịnh) –

Đoàn Quý Phi

Đoàn Quý Phi (16011661) tên thật là Đoàn Thị Ngọc, là con gái thứ ba của Thạch Quận Công Đoàn Công Nhạn và bà thứ thất Võ Thị Thành.[1]. Bà là vợ của Nguyễn Phước Lan, thân mẫu của Chúa Hiền – Thái Tông Nguyễn Phước Tần. Năm Gia Long thứ 5 (1806) đã truy tôn bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫu Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu. Lăng mộ Đoàn Quý Phi tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh từ năm 2005. Đây là lăng mộ cổ xưa nhất thời các chúa Nguyễn ở phía Nam, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16, 17.[2] Hằng năm cứ đến ngày 24 tháng 3 âm lịch, nhân dân quanh vùng và tộc họ thường làm lễ dâng hương để tưởng niệm Bà.[3]

  1. Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu
– Nguyễn Phước Tương –

Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc mà nhân dân Quảng Nam quen gọi một cách thân kính là Đoàn Quý Phi. Bà là hậu của Chúa thượng Nguyễn Phúc Lan tức Hiếu Chiêu Hoàng Đế (1563 – 1648) và là mẫu hậu của Chúa Nguyễn Phúc Tần tức Hiếu Triết Hoàng Đế (1648 – 1687).

Đức bà Đoàn Quý Phi là con gái thứ ba của Thạch Quận Công Đoàn Công Nhạn và bà thứ thất Võ Thị Thành. Đức Bà sinh năm 1600 tại thôn Điện Châu, châu Đông Yên, bên bờ Sài Thị Giang (tức Sông Chợ Củi, nay là sông Thu Bồn), thuộc huyện Duy Xuyên. Ngày xưa làng Đông Yên kéo dài từ Chiêm Sơn (nay là xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên) cho đến Chợ Củi (nay là xã Điện Phương, huyện Điện Bàn). Đức Bà là em gái của Quốc Cựu Sầm Oai Hầu Đoàn Công Quảng, trưởng phái nhất, chi phái nhất của tộc Đoàn ở Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Đức Bà có công lao to lớn trong việc khuyến khích phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa xứ Quảng, nên được nhân dân tôn kính là Bà Chúa tằm tang xứ Quảng.

Đức Bà là một phụ nữ xinh đẹp và đôn hậu. Sách “Đại Nam Nhất Thống chí” đã viết: “Bà là người minh mẫn, thông sáng … sáng thơm, tú mị, phép tốt trinh thuần”.

Đức Bà mất ngày 17 tháng 5 năm Tân Sửu, tức ngày 12.7.1661 tại Dinh Trấn Thanh Chiêm (nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn), về sau được Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) truy phong là Trinh thục Từ Tĩnh Duệ Mẫn.

Chúa Nguyễn Phúc Tần, đã làm lễ an táng trọng thể cho Mẫu hậu tại Gò Cốc Hùng và xây Lăng Vĩnh Diên (nay thuộc xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên) đồng thời lập nhà thờ Đức Bà tại Đông Giáp, châu Đông Yên bên bờ Sài Thị Giang. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần cũng cấp năm mẫu đất tự đường tại làng Phú Trang (nay thuộc xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn) lấy hoa lợi dùng vào việc chăm sóc, tu bổ cho Lăng mộ và Nhà thờ và phong cho ông Đoàn Công Quảng là Lễ Nghĩa Hầu Tiền Xung Bát Đội Chánh Đội trưởng đảm đương việc này.

Trận lụt lớn của Sài Thị Giang xảy ra vào năm Canh Thìn 1680 thời vua Chánh Hòa Lê Hy Tông (1676 – 1705) tức năm Chúa Nguyễn Phúc Tần thứ 32, gây xoáy lở ngay giữa làng Đông Yên, cắt đôi làng Đông Yên thành hai phần là Đông Yên Tây và Đông Yên Đông và sau trận đại hồng thủy này nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu đã bị hủy hoại.

Đến thời Chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (1725 – 1738) vào khoảng năm 1730, Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu được xây dựng lại lần thứ hai trên đất Đông Yên Đông và lùi xa bờ Sài Thị Giang.

Một thời gian sau, do dòng Sài Thị Giang xói lở một lần nữa, nhà thờ Đức bà lại bị hư hại phần tiền sảnh.

Sau khi nổi lên ở Bình Định năm 1771, quân Tây Sơn chiếm Quảng Nam vào cuối năm 1774 và đã triệt phá hoàn toàn nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và chùa Bảo Châu Sơn Tự ở Trà Kiệu do Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1617.

Sau khi đánh thắng quân Tây Sơn thống nhất đất nước và lên ngôi năm 1802, vua Gia Long (1802 – 1820) đã cho xây lại nhà thờ Đức Bà khang trang hơn trước tại Bãi Bắc ở Đông Yên Đông.

Đến đời vua Tự Đức (1847 – 1883) ra chỉ dụ chia tách làng Đông Yên thành hai làng, phần thứ nhất nằm ở phía bắc Sài Thị Giang Đông Yên Đông gọi là Đông Giáp sáp nhập vào phủ Điện Bàn (nay gọi là Đông Khương thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn) và phần đất nằm ở phía nam Sài Thị Giang Đông Yên tây gọi là Tây Giáp sáp nhập vào huyện Duy Xuyên (nay là xã Duy trinh, huyện Duy Xuyên). Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu hiện nay nằm trên làng Đông Khương, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn.

Đến năm thứ sáu đời vua Thành Thái (1889 – 1907), năm Nhâm Thìn 1894, vua ra chiếu chỉ ban cho phái nhất, chi nhất tộc Đoàn ở làng Đông Khương 1.000 lạng bạc để xây dựng lại hậu tẩm nhà thờ Đức Bà lâu ngày bị xuống cấp.

Từ đó đến nay, nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu đã được nhiều lần trùng tu. Dưới thời vua Bảo Đại (1926 – 1945), nhà thờ Đức Bà đã được trùng tu vào năm Bảo Đại thứ năm, năm Canh Ngọ 1930.

Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, bà con tộc Đoàn đã đóng góp tiền để trùng tu nhà thờ Đức bà vào năm Mậu Tuất 1958.

Sau khi miền Nam được giải phóng và thống nhất nước nhà năm 1975, đến năm 2000, nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị xuống cấp nặng làm tường vôi bị bong lở, cột kèo bị mối mọt khá nhiều, Hội đồng Gia tộc tộc Đoàn đã huy động con cháu trực thuộc hệ Đông Khương đóng góp tiền và tiến hành trùng tu lớn, làm cho nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu được khang trang như  hiện nay.

Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu nằm ở bên phải Quốc lộ 1 theo hướng bắc-nam khoảng 100m trên một khu đất cao. Bước qua các bậc tam cấp là một sân hình chữ nhật lát gạch vuông. Giữa sân là tấm bình phong mà ở giữa đắp nổi hình lân nạm sành sứ nhiều màu sắc và hai bên là hình hai con phượng đứng chầu cũng nạm sành sứ sặc sỡ.

Qua sân, bước lên tam cấp là gian thờ chính Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu. Trên đỉnh mái ngói âm dương đắp hình lưỡng long chầu nguyệt khá lớn với màu sắc lộng lẫy trông rất đẹp mắt.

Mặt tiền của nhà thờ là bốn trụ tròn bằng gạch to trên đó tô đắp hình bốn con rồng lớn mình bao quanh lấy cột, thân và đầu lẫn trong mây cuộn trông rất hoành tráng. Hậu tẩm chia thành ba gian, đặt ba bàn thờ. Ở gian giữa là nơi đặt bàn thờ của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu với bát nhang, chân đèn, lư hương cổ kính. Ở giữa hương án sơn son thếp vàng đặt thần vị của Hoàng Hậu được phủ tấm lụa điều. Trên thần vị ghi các dòng chữ Hán: “Tiền Triều Thánh Mẫu Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu”.

Phía trước thần vị của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu là Bài vị của người anh ruột của Hoàng Hậu, trên đó ghi các dòng chữ Hán: “Tiền Triều Quốc Cựu Sầm Oai hầu Đoàn Công Quảng”. Ở gian bên phải, trên bàn thờ đặt Bài vị của ông Nghĩa Sơn Hầu là con trai cả của Sầm Oai Hầu. Ở gian bên trái, trên bàn thờ đặt hai Bài vị của hai người cháu ruột của Hoàng Hậu.

Trong hậu tẩm có nhiều liễn đối bằng gỗ ghi chữ Hán thiếp vàng. Trên hai cột ở hai bên gian giữa của hậu tẩm treo câu đối chữ Hán của vua Thành Thái năm thứ sáu, 1894, cúng phụng có nội dung ca ngợi công đức của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu:

Tấn cung đức hậu phụ quốc phong công truyền Nam Sử

Khai sáng công cao tí dân vĩ tích tráng Đông Châu.

Tạm dịch:

Vào cung đức hậu giúp nước công to truyền Nam Sử

Mở mang công lớn thương dân tích lớn mạnh Đông Châu.

Trên một đôi cột ở các góc hậu tẩm treo một câu đối chữ Hán khác, do vua Bảo Đại năm thứ mười một, 1936, cúng phụng, cũng có nội dung ca ngợi công đức của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu:

Thi châu bộ đại dư đồ thánh mẫu mở nền truyền Nam Sử

Phục từ đường bắc hạ xứ tôn lăng kế tập tráng Đông Châu

Tạm dịch:

Bản đồ địa bạ đất Thi Châu thánh mẫu mở đường truyền Nam Sử

Dựng lại từ đường nơi Bắc Hạ tôn lăng noi dấu mạnh Đông Châu.

Trên một đôi cột còn lại, treo một đôi câu đối chữ Hán cũng có nội dung ca ngợi công đức của Đức Bà Hiếu Chiêu:

Hoàng thích công thần trọng ư triều trọng ư quân

Khai cơ kiến bộ giáp chi đông giáp chi tây

Tạm dịch:

Họ ngoại công thần nhà vua trọng trong triều trọng ngoài quận

Khai cơ lập họ giáp đến tận Đông giáp đến tận Tây.

Đối với nhân dân xứ Quảng, Bà Chúa tằm tang – Đoàn Quý Phi – Hiếu Chiêu Hoàng Hậu là một nhân vật lịch sử được nhân dân địa phương rất kính ngưỡng bởi mối tình tuyệt đẹp của Bà cũng như công lao to lớn của Bà trong nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa trên quê hương. Bởi vậy, nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu là một di tích – địa danh lịch sử được người dân xứ Quảng hết sức quan tâm.

Xót xa… lăng mộ Đoàn Quý Phi

TT – Lăng mộ Đoàn Quý Phi tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, đã được UBND tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh từ năm 2005.

Sau hơn năm năm từ khi trở thành di tích, lăng mộ xuống cấp rất nghiêm trọng. Thành xây vòng trong, vòng ngoài và cả cổng trụ vào lăng mộ đều nứt vỡ, đổ tràn xuống nền đất. Các hoa văn chạm trổ, án thờ tróc lở nham nhở.

Đoàn Quý Phi (1601-1661) là thân mẫu của Chúa Hiền (Thái Tông Nguyễn Phước Tần). Bà là người có đức tính cần cù, chăm chỉ, hiền hậu, thông minh. Để tưởng nhớ công đức của Bà, các chúa Nguyễn đã phong tặng nhiều danh hiệu tôn kính, đặc biệt năm Gia Long thứ V (1806) đã truy tôn bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫu Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu.
Lăng mộ Đoàn Quý Phi nằm tại làng Chiêm Sơn – xã Duy Trinh – huyện Duy Xuyên. Đây là lăng mộ cổ xưa nhất của chúa Nguyễn ở phía nam, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16, 17. Hằng năm cứ đến ngày 14 tháng 3 âm lịch, nhân dân quanh vùng và tộc họ thường làm lễ dâng hương để tưởng niệm Bà.

2. Quảng Nam: lễ hội Bà Chúa Tằm Tang

Trong các ngày từ 14 đến 16-3 â lịch, tại xã Duy Trinh (Duy Xuyên, Quảng Nam) lễ hội Bà Chúa Tằm Tang (Đoàn Quý Phi) lần đầu tiên được tổ chức với qui mô lớn để tri ân người có công khuyến khích, phát triển nghề tằm tang trên đất Duy Xuyên và để quảng bá thương hiệu một làng nghề truyền thống đã ra đời cách đây gần 400 năm.

Lễ hội Bà Chúa Tằm Tang sẽ có chương trình tham quan làng nghề dâu tằm tơ truyền thống Đông Yên; tại đây du khách sẽ được tham quan qui trình sản xuất khép kín mang tính truyền thống từ trồng dâu – nuôi tằm – ươm tơ – dệt lụa; thưởng thức các món ẩm thực dân gian có nguồn gốc từ nghề nuôi tằm…

Chương trình lễ hội

Ngày 11 – 4: lễ đón nhận bằng công nhận làng nghề dệt vải Phú Bông – Thi Lai.

– Thời gian : từ 8g – 10g.

– Địa điểm: Hợp tác xã dệt may Duy Trinh.

Hoạt động TDTT, các trò chơi dân gian:

– Thời gian: từ 11g – 16g.

– Địa điểm: Hợp tác xã dệt may Duy Trinh, sân bóng Chùa Lầu.

Ngày 12 – 4:

Lễ tế Bà Chiêm Sơn

– Thời gian: từ 7g – 10g.

– Địa điểm: dinh Bà Chiêm Sơn, thôn Chiêm Sơn.

Hoạt động TDTT, các trò chơi dân gian:

– Thời gian : từ 11g – 16g.

– Địa điểm : Dinh Bà Chiêm Sơn, thôn Chiêm Sơn.

Ngày 13 – 4:

Hoạt động trại đoàn thanh niên.

Hoạt động TDTT, trò chơi dân gian.

– Thời gian : từ 7g – 16g.

Lễ tế bà Đoàn Quý Phi

– Thời gian: từ 18g – 19g.

– Địa điểm : nhà thờ tộc Đoàn, thôn Đông Yên.

Chương trình sân khấu hóa lễ hội Bà Chúa Tằm Tang

– Thời gian: từ 19g.

– Địa điểm: Trung tâm làng nghề dâu tằm tơ Đông Yên.

Mọi chi tiết liên hệ UBND xã Duy Trinh; ĐT: (0510) 877697 – 877998

3. Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi Đoàn Thị Ngọc

Bà Đoàn Thị Ngọc sinh năm 1601, là con gái thứ ba của Thạch Quận công Đoàn Công Nhạn, mẹ là phu nhân Võ Thị Ngọc Thành.Đoàn Thị Ngọc vốn là người gốc ở Đàng Ngoài (từ thế kỷ XVII đến XVIII, đất nước ta bị chia làm hai: Đàng Ngoài và Đàng Trong sau cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn).

Năm 1615, lúc ấy bà là một thôn nữ hiền thục, chăm làm. Có lần, vào một đêm trời trong, trăng sáng vằng vặc, thôn nữ họ Đoàn vừa hái dâu bên bãi vừa hát. Lúc đó, công tử Nguyễn Phước Lan cùng cha là chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (là Thái tử trấn thủ dinh Quảng Nam) du ngoạn trên sông Thu Bồn gần gành Điện Châu (An Phú Tây ngày nay). Nghe tiếng hát trong trẻo, thanh tao của một thôn nữ, công tử Nguyễn Phước Lan cho người hỏi tìm rồi sau đó hai người cùng kết duyên vào năm 1617. Từ đó, Đoàn Thị Ngọc chuyển về sống tại dinh trấn Thanh Chiêm. Tại đây, bà được nhân dân biết đến với tên gọi là Đoàn Quý phi.

Năm 1635, chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên qua đời, Thái tử Nguyễn Phước Lan trở thành chúa thượng, bà Đoàn Thị Ngọc trở thành Vương phi và thân phụ bà được phong tước Thạch Quận công. Bấy giờ, chúa Nguyễn Phước Lan dời phủ chúa từ làng Phước Yên (nay thuộc huyện Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế) về làng Kim Long ở Phú Xuân.

Sinh thời, bà Đoàn Quý phi là người minh mẫn thông sáng. Bà có Thái tử là Nguyễn Phước Tần sau trở thành vị chúa hiền. Thời gian sống ở Quảng Nam, bà được nhân dân hết mực yêu mến, quý trọng. Bà là người có công khuyến khích, ủng hộ nhân dân các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Nhờ vậy mà nghề này có điều kiện mở mang ở Đàng Trong. Bấy giờ, nhiều mặt hàng tơ lụa nổi tiếng như đoạn, lãnh, gấm, vóc, trừu, sa được mua bán trong nước và cả với nước ngoài qua cảng Hội An (ở Quảng Nam). Qua đó góp phần làm giàu và quảng bá mặt hàng thủ công nổi tiếng này.Vào cuối đời, bà rời phủ chúa Kim Long (Thừa Thiên – Huế) trở về sống ở dinh trấn Thanh Chiêm cùng với con cháu trên quê hương của mình.

Bà mất ngày 17-5 năm Tân Sửu (tức ngày 12-7-1661). Bà được an táng tại quê nhà Chiêm Sơn (Quảng Nam).

Năm 1744, Võ Vương Nguyễn Phước Khoát đã truy dâng bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi, về sau thêm hai chữ Mẫn Duệ thành Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi Mẫn Duệ.

Năm 1806, vua Gia Long truy tôn bà là Hoàng hậu với vương tước: “Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng hậu” và khắc tên lên kim sách (sách bằng vàng) của hoàng tộc và tôn hiệu này được thờ phụng với Hiếu Chiêu Hoàng đế (chúa thượng Nguyễn Phước Lan) ở Thái Miếu (Huế).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *