CHI HỌ ĐOÀN LÀNG HẢI YẾN
(Họ Đoàn tỉnh Hưng Yên)
THÔNG TIN DÒNG HỌ
Tên dòng họ: Họ Đoàn làng Hải Yến, xã Hải Triều, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên
Quê gốc: làng Hải Yến, xã Hải Triều, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên
Ngày giỗ họ: Mồng 10 tháng Giêng
Số thành viên:1279
Ngày lập gia phả: 23/12/2019
Người lâp gia phả: Đoàn Đức Nhuận
LỜI HAY Ý ĐẸP
Tích đức lũy công thùy tục hậu côn chí (Tích lũy công đức là phong tục để con cháu noi theo)
GIỚI THIỆU VỀ DÒNG HỌ
Đoàn Tộc Thế Phả làng Hải Yến, xã Hải Triều, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên
Thập nhị thế tôn Giáp tam chi Đoàn Đức Nhuận, Đoàn Đức Long
Xin trân trọng giới thiệu với trăm họ:
Đoàn Gia Thế Phả 1860, Tự Đức năm thứ 13, là Gia phả họ Đoàn
ở làng Hải Yến, xã Hải Triều, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Bản này là tư liệu
được các vị Trưởng chi Giáp tam lưu giữ và phổ biến trong họ, cùng thời với bản
Đông Trù Đoàn tộc phả 1858 trong Thư viện Quốc gia Việt Nam.
Người trình bày:
Đoàn Đức Nhuận – Đoàn Đức Long, thập nhị thế tôn Giáp tam chi.
Đoàn Tộc Thế Phả làng Hải Yến, xã Hải Triều, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên
Người sáng lập Đệ cửu thế tôn Cử nhân Đoàn Mậu Hy Trác Tiên sinh Tri phủ Từ Sơn biên soạn, Đệ cửu thế tôn Tú tài Đoàn Liên Hạ Tứ đề tự.
Nguồn Nguyên chính bản Đoàn Gia Thế Phả 1860, thập nhị thế tôn Đoàn Đức Nhuận, Đoàn Đức Long giáp tam chi thuộc họ Đoàn ở làng Hải Yến, xã Hải Triều, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên hiện đang lưu giữ.
Mô tả Đoàn Tộc Thế Phả này được biết có 6 quyển như nhau đều viết tay bằng chữ Nho Việt (Nôm) rất đẹp, giao cho 6 chi Giáp nhất, Giáp nhị, Giáp tam, Ất nhất, Ất nhị, Ất tam.
Đoàn Tộc Thế Phả là gia phả họ Đoàn ở làng Hải Yến, xã Hải Triều, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Họ Đoàn là họ lớn nhất ở làng Hải Yến, Thủy tổ họ Đoàn là Phúc Chiêu công, Đời thứ 2: Phúc Khánh công, Đời thứ 3: Đoàn Thế Nho … gia phả ghi được 10 đời, đến nay đã phát triển đến trên 20 đời.
Đoàn Tộc Thế Phả gồm 4 phần, 112 trang (2 trang giới thiệu, 98 trang nội dung chính gia phả, 8 trang Đoàn tộc từ đường bài nhan, 4 trang Đoàn tộc xuân thu tế văn)
Cụ Đoàn Đình Mậu, đời thứ 9, ất tam chi, đỗ cử nhân năm Mậu Tý, 1828, Hy Trác công, Tri huyện huyện Đăng Sương, sau là Tri phủ phủ Từ Sơn, Thụy là Đôn Mãn, hiệu là Lan đường tiên sinh, khi mất được tôn là Thành Hoàng thôn An Lạc, cùng trong tổng, là người viết lời nói đầu và biên soạn thành tộc phả, cung tự, Tự Đức năm thứ 13, hạ tuần tháng 3, năm Canh Thân, 1860.
Đầu sách giới thiệu công lao của Cụ Đoàn Duy Phiên, đời thứ 7, giáp nhị đệ tam chi, Nho sinh Cương Chính Công, người sáng thành tộc phả và công lao thu thập tư liệu của Cụ Đoàn Thanh, đời thứ 8, giáp nhị đệ nhị chi tuế nhất, Tĩnh Trai tiên sinh. Người viết lời giới thiệu là Cụ Đoàn Thế Liễn, đời thứ 9, giáp nhị chi chi nhất, cụ đỗ nhị khoa tú tài Tân Dậu và Giáp Tý, tự là Hạ Tứ. Cụ viết lời giới thiệu, kính tự, thượng tuần tháng 8, Thành Thái năm thứ 13, Tân Sửu, 1901.
Cuối sách là Đoàn tộc từ đường bài nhan và Đoàn tộc xuân thu tế văn.
- Lời giới thiệu (Nho Việt – Âm Nho Việt – Dịch Nghĩa)
Nho Việt
吾族譜六代以前 先君子靜齋先生上質之 儒生剛正公創成之 慈山知府希卓公纂修之譜 因之以傳七代以後未之逮
也夫記載不備則支派不詳 後之人浴有所稽考何由哉 去年春思以續之因搜輯甲 乙二支諸先譜號及遠近世
次合為一依次集成併將原 譜謄寫之釘成一卷交每支 各一本珎藏之略擧其譜則 第一世祖至今爲第十一世
宗矣今而後生齒日繁世代 日逮譜而傳之以垂永久能 無望於後之君子焉若夫作 譜之意愛敬之心
希卓公原序詳之矣何以贅 當 成泰拾叁年仲秋上浣 九世孫秀才段璉夏四敬序
Âm Nho Việt
Ngô tộc phả lục đại dĩ tiền Tiên quân tử Tĩnh Trai tiên sinh thượng chất chi (1)
Nho sinh Cương Chính công sáng thành chi (2)
Từ Sơn tri phủ Hy Trác công soạn tu chi phả (3) nhân chi dĩ truyền thất đại dĩ hậu vị chi đãi dã phù ký tái bất bị tắc chi phái bất tường hậu chi nhân dục hữu sở kê khảo hà do tai khứ niên xuân tư dĩ tục chi nhân sưu tập giáp ất nhị chi chư tiên phả hiệu cập viễn cận thế thứ hợp vi nhất y thứ tập thành tính tương nguyên phả đằng tả chi đính thành nhất quyển giao mỗi chi các nhất bản trân tàng chi lược cử kỳ phả tắc đệ nhất thế tổ chí kim vi đệ thập nhất thế tôn hỹ kim nhi hậu sinh xỉ nhật phiền thế đại nhật đãi phả nhi truyền chi dĩ thùy vĩnh cửu năng vô vọng ư hậu chi quân tử yên nhược phù tác phả chi ý ái kính chi tâm.
Hy Trác công nguyên tự tường chi hỹ hà dĩ xuế. Đương. Thành Thái thập tam niên trọng thu thượng hoán. Cửu thế tôn Tú tài Đoàn Liễn Hạ Tứ. Kính tự. (4)
Dịch Nghĩa
Khi họ nhà ta đã có 6 đời. Nho sinh Cương Chính công là người sáng thành tộc phả. (2) Tĩnh Trai tiên sinh là người đầu tiên thu thập tư liệu. (1) Tri phủ Từ Sơn Hy Trác công (3) là người đầu tiên ghi lại tộc phả từ đầu, biên soạn từ đời thứ 7 về sau. Việc ghi chú kịp ở thời kỳ đó đã tạo điều kiện cho con cháu đời sau có thể biết tường tận gia phả. Thời kỳ đó có những năm tai binh loạn lạc, nên việc ghi chép khảo cứu bị gián đoạn. Ngay sau đó Hy Trác công lại tiếp tục toàn tâm toàn ý soạn phả, với tấm lòng cung kính, sưu tập ghi chép lại phả hiệu tiên tổ, gần xa thế thứ giáp ất nhị chi đầy đủ, sao chép chính xác đóng thành những quyển như nhau, giao cho mỗi chi một quyển chỉnh lược quý giá, nhằm giữ gìn vĩnh cửu gia phả đó, kịp thời truyền lại cho những thế hệ sau.
Hy Trác công đã tỏ trình lời tựa, có gì sơ xuất mong được bỏ qua. Nguyên đương nhiệm tri phủ. Thành Thái năm thứ 13, thượng tuần tháng 8. Cháu đời thứ 9, Tú tài Đoàn Liễn tự Hạ Tứ, Kính tự.
- Lời tựa (Nho Việt – Âm Nho Việt – Dịch Nghĩa)
Nho Việt
家之有譜國之有史也 國無史則統紀何自而明家 無譜則世系何由而考此 古人家必有譜者歟 吾族着性于吾邑古矣目令
一甲三百人上下族中人也 考之先代自第一祖至第三 尊歷世相傳壹以一人而一 甲者乎且吾邑與朝揚同吾
姓者成多但無徵不信不相 誌認郎此而推譜之不可闕 也明矣經僞西兵燹後吾族 世譜不遺片文幸有二科秀
才靜齋府君上質之儒生剛 正府君推記得自九世祖以 來世次餘無可考秀才君乃 掑修家譜自第一代祖至六
代尊甲乙二支次序明白交 之各支每守一道其用心不 亦勞乎其爲功不亦大乎及 晚年臥病徵
希卓而囑以纂修自念幸叨 鄕科敢謝不敏乃詳訪各支 纂修自七代至八代世譜以 成秀才君之志編成文每支
本亦一今而後有披而觀之 者目注心層不但誌忍有澂 因知夫世代雖遠同是一根 生愛敬以相聜和庻有陳張
之風範若乃仰承先廕日益 蕃昌継修譜以明本支於奕 禩竢後之達人焉是爲序
原慈山府分府戍子舉人 段茂字希卓恭序 嗣德拾叁年季春下浣
Âm Nho Việt
Gia chi hữu phả quốc chi hữu sử dã Quốc vô sử tắc thống kỷ hà tự nhi minh gia Vô phả tắc thế hệ hà do nhi khảo thử Cổ nhân gia tất hữu phả giả dư khuyết Ngô tộc trước tính vu ngô ấp cổ hỹ mục linh nhất giáp tam bách nhân thượng hạ tộc trung nhân dã khảo chi tiên đại tự đệ nhất tổ chí đệ tam tôn lịch thế tương truyền nhất dĩ nhất nhân nhi nhất giáp.
Giả hồ thả ngô ấp dữ Triều Dương đồng ngô tính giả thành đa, đãn vô trưng bất tín bất tương chí nhận lang thử nhi suy phả chi bất khả khuyết dã minh hỹ kinh ngụy tây binh tiển Hậu ngô tộc thế phả bất di phiến văn hạnh hữu nhị khoa tú tài Tĩnh Trai phủ quân thượng chất chi.
Nho sinh Cương Chính phủ quân suy ký đắc tự cửu thế tổ dĩ lai thế thứ dư vô khả khảo tú tài quân nãi ghi tu gia phả tự đệ nhất đại tổ chí lục đại tôn giáp ất nhị chi thứ tự minh bạch giao chi các chi mỗi thủ nhất đạo kỳ dụng tâm bất diệc lao hồ kỳ vi công bất diệc đại hồ cập vãn niên ngọa bệnh trưng
Hy Trác nhi chúc dĩ sọan tu tự niệm hạnh thao hương khoa cảm tạ bất mẫn nãi tường phỏng các chi soạn tu tự thất đại chí bát đại thế phả dĩ thành tú tài quân chi chí biên thành văn mỗi chi bản diệc nhất kim nhi hậu hữu phi nhi quán chi giả mục chú tâm tằng bất đãn chí nhận hữu trưng nhân tri phù thế đại tuy viễn đồng thị nhất căn sinh ái kính dĩ tương hòa thứ hữu trần trương chi phong phạm nhược nãi ngưỡng thừa tiên ấm nhật ích phiên xương kế tu phả dĩ minh bản chi ư dịch tự sĩ hậu chi đạt nhân yên thị vi tự
Nguyên từ sơn phủ phận phủ Mậu Tý cử nhân Đoàn Mậu tự Hy Trác cung tự Tự Đức thập tam niên quý xuân hạ hoán
Dịch Nghĩa
Nhà có gia phả như Nước có sử sách. Nước không có sử sách thì người dân chẳng biết đến một triều đại nào, còn nói gì đến Nhà! Nhà không có gia phả thì con cháu biết đâu là tôn thống. Vì thế các gia đình cổ xưa đều có gia phả. Họ Đoàn trong làng ấp quê ta xưa chỉ có 1 giáp với 300 người, khảo cứu thời kỳ đầu họ ta từ trên xuống dưới từ đệ nhất tổ đến đệ tam tôn, chỉ có 1 giáp truyền đời có 1 người. Họ ta ở trong làng, song làng Triều Dương kế bên cũng có họ Đoàn, nhưng trong thời gian đó, nước nhà biến loạn, giặc giã liên miên, không có giấy tờ lưu lại nên không thể kết nối được. Về sau họ ta cũng không có văn tự nào để lại, may mà có cụTĩnh Trai tiên sinh, cụ đỗ hai khóa tú tài thu thập lại tư liệu. Nho sinh Cương Chính phủ quân ghi được từ đời thứ 9 trở đi rồi cùng tham khảo tư liệu của các vị tú tài ghi chép gia phả ở các chi phái từ đệ nhất tổ đến đời thứ 6, chia ra Giáp, Ất nhị chi, thứ tự rõ ràng và có gia phả giao cho các chi mỗi chi một cuốn, lao tâm vì việc công không may cuối năm cụ bị trọng bệnh.
Hy Trác tôi, thực tình cảm kích, tâm niệm tự sọan tu tường tận, phỏng theo soạn tu từ đời thứ 7 đến đời thứ 8 thế phả ở các chi của các vị tú tài, biên thành văn bản nhất quán, mỗi chi một bản nhằm giữ gìn về sau. Các thế đại tuy có cách xa nhau, nhưng cùng chung một nguồn gốc sinh ra, nên nhất thiết cần sự ái kính tôn trọng và hòa thuận để cùng kế thừa ghi chép gia phả chính xác rõ ràng để lại cho đời sau.
Mong ước lớn lao thành đạt xin viết lời tựa. Nguyên tại phủ Từ Sơn, Mậu Tý Cử nhân, Đoàn Mậu tự Hy Trác cung tự.
Hạ tuần tháng 3 năm Tự Đức thứ 13 (1860).
Ghi chú
(1) Cụ Đoàn Thanh húy Bộc tự Trừng Phủ Tĩnh Trai Tiên Sinh, đời thứ 8, giáp nhị đệ nhị, chi nhất. Người đầu tiên có công thu thập tư liệu tộc phả.
(2) Cụ Đoàn Duy Phiên quan viên tư đời tiền Lê, thụy Cương Chính Tiên Sinh, đời thứ 7, giáp nhị đệ tam, chi tam, được ân tứ là người thọ cao, 87 tuổi, được cấp tiền và gạo. Cụ đỗ tam trường, làm nghề dạy học, thời Minh Mệnh, Người có công sáng thành tộc phả.
(3) Cụ Đoàn Đình Mậu đời thứ 9, ất tam chi, đỗ cử nhân năm Mậu Tý, Hy Trác công, Tri huyện huyện Đăng Sương, sau là Tri phủ phủ Từ Sơn, Thụy là Đôn Mãn, hiệu là Lan Đường tiên sinh, khi mất được tôn là Thành Hoàng thôn An Lạc, cùng trong tổng. Người có công viết lời tựa và biên soạn tộc phả đầu tiên, cung tự. Tự Đức năm thứ 13, hạ tuần tháng 3 (Canh Thân, 1860).
(4) Cụ Đoàn Thế Liễn tự là Hạ Tứ, đời thứ 9, giáp nhị chi nhị, là con thứ tư của cụ Đoàn Thanh. Cụ đỗ nhị khoa tú tài Tân Dậu và Giáp Tý. Người có công viết lời giới thiệu, kính tự. Thành Thái năm thứ 13, thượng tuần tháng 8. (Tân Sửu, 1901).
Sau này Cụ Đoàn Triệu Liên, đời thứ 10, con thứ 3 của Cụ Đoàn Đình Mậu, tiếp tục biên sọan bổ sung gia phả 10 đời và các đời 11, 12, …
Thông tin dòng họ và Phả Đồ Đoàn Tộc được xây dựng
căn cứ vào Nguyên bản Nho Việt Đoàn Gia Thế Phả 1860 của
Cụ Đoàn Đình Mậu đời thứ 9, các bản Nho Việt Đoàn Gia Thế Phả
của Cụ Đoàn Triệu Liên đời thứ 10, và các tư liệu thu thập từ
các cụ Lão thành ở các chi phái trong Họ.
Hà Nội 23-12-2019
Đoàn Đức Nhuận – Đoàn Đức Long