DANH TƯỚNG ĐOÀN THƯỢNG

Đoàn Thượng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đoàn Thượng (1184-1228) là tướng nhà Lý và là một sứ quân chống lại triều đình cuối thời nhà Lý, đầu thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.

Tiểu sử

Ông sinh ngày 10 tháng Giêng năm Giáp Thìn (1184) đời Lý Cao Tông. Theo ngọc phả ở Hải Dương, ông là con của Đoàn Trung và bà Hoàng Thị Mỹ. Sử sách thống nhất ghi ông người làng Thung Độ, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải DươngViệt Nam.

Chống lại triều đình

Đoàn Thượng trở thành hào trưởng vùng Hồng. Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, ông có cùng một vú nuôi với vua Lý Cao Tông. Ông lớn lên lúc nhà Lý đã suy vi. Vua Lý Cao Tông chơi bời vô độ, tăng cường bóc lột dân chúng, vì thế nhân dân oán thán, nhiều nơi nổi dậy chống lại. Nhân lúc lòng dân chán nhà Lý, Đoàn Thượng cũng nổi dậy tại quê nhà vùng Hồng.

Vùng Hồng, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí [1] nói về phủ Bình Giang và Ninh Giang: “Xưa gọi là Hồng châu, cuối đời Trần chia làm châu Thượng Hồng và châu Hạ Hồng…”. Vùng Hồng gồm các huyện Cẩm Giàng, Bình Giang, Thanh Miện, Gia Lộc, Ninh Giang và Tứ Kỳ ở phía nam tỉnh Hải Dương ngày nay.

Sử sách chép không thống nhất về thời gian Đoàn Thượng nổi lên. Các nhà nghiên cứu thống nhất lấy nguồn thông tin từ sách Đại Việt sử lược là sách được soạn vào thời nhà Trần là bộ sử cổ nhất làm căn cứ đáng tin cậy hơn cả.

Tháng 3 năm 1207, Đoàn Thượng và Đoàn Chủ nổi dậy chống lại triều đình. Ông xây đắp thành, đắp lũy. Lý Cao Tông sai đem đại binh đi đánh. Đàm Dĩ Mông đem quân đạo Đại Thông (miền Hà Đông cũ dọc sông Đáy), Phạm Bỉnh Di đem quân đạo Khả Liễu, Trần Hinh đem quân đạo Phù Đái (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), Bảo Trinh hầu đem quân đạo Nam Sách (Nam SáchHải Dương), cùng họp nhau đánh Đoàn Thượng. Thấy thế lực quân triều đình quá mạnh, Đoàn Thượng liền ngầm sai người đem của cải đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, nguyện xin đem quân chúng theo Du. Cuộc liên minh giữa Đoàn Thượng và Phạm Du bắt đầu từ đó. Phạm Du cố vì Thượng mà xin với Cao Tông tha cho ông.

Đầu năm 1209, Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An. Du làm trái lệnh chống triều đình. Cao Tông liền sai Phạm Bỉnh Di lấy quân ở Đằng Châu (thị xã Hưng Yên) để đánh Phạm Du. Du trở về Cổ Miệt (Hồng Châu) cùng với Đoàn Thượng, Đoàn Chủ ở hợp binh làm phản triều đình, đánh Đằng Châu. Bỉnh Di bị thua.

Tháng 2 năm 1209, Bỉnh Di lại đem binh ở Đằng Châu, Khoái Châu đi đánh Du. Phạm Du thua trận bỏ trốn. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết.

Tháng 3 năm 1209, Phạm Bỉnh Di đánh Đoàn Thượng và Đoàn Chủ tại Vệ Kiều. Quân Đoàn Thượng thua trận, Đoàn Chủ bị hãm ở chỗ bùn lầy và bị tướng Hà Văn Lôi đâm chết.

Tháng 4 năm 1209, Phạm Bỉnh Di lại đánh tan quân Đoàn Thượng. Tuy nhiên, trong lúc Đoàn Thượng suy yếu thì sự mê muội của vua Lý Cao Tông, tin theo gian thần Phạm Du khiến nhà Lý càng suy vi.

Làm tôi triều đình

Phạm Du ngầm sai người về kinh đút lót cho các quan lại trong triều, nói rằng Bỉnh Di tàn ác, giết hại người vô tội và kể lể tình oan, xin về kinh đợi tội. Cao Tông sai Trần Hinh triệu Phạm Du về kinh, lại triệu cả Bỉnh Di về triều. Phạm Du về kinh trước hầu Cao Tông, được vua tin theo; Bỉnh Di đến kinh sau, vào triều phụng mệnh. Cao Tông sai bắt Bỉnh Di và con là Phụ giết chết.

Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin đó, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Du cùng em là bọn Phạm Kinh giết Bỉnh Di và con là Bỉnh Di là Phụ rồi cùng Cao Tông chạy trốn. Quách Bốc liền tôn hoàng tử nhỏ là Thầm lên làm vua. Cao Tông chạy về Tam Nông (Phú Thọ) nương nhờ nhà Hà Vạn, một thủ lĩnh miền thiểu số có thế lực.

Thái tử Sảm cùng mẹ là nguyên phi Đàm Thị và hai em gái chạy về Hải Ấp, Thái Bình, được thủ lĩnh địa phương là Trần Lý và Tô Trung Từ lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương. Thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung có nhan sắc, Lý Sảm bèn lấy làm vợ, nhân đó Trần Lý được phong làm Minh Tự, Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ.

Biết tin thái tử Sảm lập triều đình riêng và tự ý phong tước cho Trần Lý, Tô Trung Từ,… nên vua Lý Cao Tông ở Quy Hoá muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi để liên lạc với Đoàn Thượng. Nhưng Du lại ham sắc, tư thông với công chúa Thiên Cực, nên lỡ hẹn với ông. Khi thuyền của ông đến đón không gặp Du, bèn trở về. Khi Du lên thuyền khác đi gặp họ Đoàn, tới Ma Lãng thì bị quân của hào trưởng Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải đón bắt và giết chết.

Trần Lý và Tô Trung Từ bèn mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc. Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung.

Cao Tông chết, thái tử Sảm lên ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Tô Trung Từ trở thành quyền thần trong triều. Sau một loạt biến cố, năm 1211, nhiều đại thần nhà Lý và cả Trung Từ bị giết. Cháu gọi Trung Từ bằng cậu là Trần Tự Khánh ở Hải Ấp lại mang quân về kinh, an táng Trung Từ.

Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nhân đó nói với vua Huệ Tông rằng:

Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập.

Huệ Tông tin theo, nổi giận, bèn hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh và giáng Nguyên phi Trần thị Dung xuống làm Ngự nữ. Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Huệ Tông hạ chiếu tấn phong tước hầu cho Đoàn Thượng.

Đoàn Thượng đem quân đánh anh em họ Trần ở ải Hoàng Điểm. Trần Tự Khánh sai bộ tướng Lại Linh cùng tướng Khoái Châu là Nguyễn Đường ra chống cự. Nguyễn Đường bị bắt. Tự Khánh bị thua, giận dữ phá đê cho nước sông chảy tràn vào các ấp rồi về. Miền Khoái Châu mất tin tưởng ở họ Trần, theo về với họ Đoàn.

Tuy nhiên, Trần Tự Khánh là một tướng tài. Sau đó Tự Khánh hai lần đánh bại quân họ Đoàn của Đoàn Ma Lôi, đóng ở Đội Sơn (Duy TiênHà Nam). Họ Trần kiểm soát được cả miền Lý Nhân (Hà Nam). Trần Tự Khánh tìm cách liên kết với hào trưởng Nguyễn Tự để đối địch với Đoàn Thượng.

Năm 1213, Đoàn Thượng phối hợp với quân triều đình đụng độ với Trần Tự Khánh. Tuy nhiên, lực lượng họ Trần mạnh hơn, có nhiều tướng giỏi hơn; trong khi đó quân nhà Lý do vua Huệ Tông và thái sư Đàm Dĩ Mông không có tài làm tướng chỉ huy nhanh chóng bị thua trận. Cánh quân Đoàn Thượng cử đi do Đoàn Cấm và Vũ Hốt chỉ huy bị bộ tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đánh bại. Lý Huệ Tông bỏ chạy lên Lạng châu, quân họ Đoàn rút khỏi kinh đô trở về vùng Hồng.

Trở về Hồng châu

Năm 1214, anh em họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang do tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đóng giữ. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc Ninh), Nguyễn Nộn giết chết được Đoàn Nguyễn. Tuy nhiên lúc đó nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Miền Cam Giá lại tách khỏi phạm vi thế lực của anh em họ Trần, hình thành một thế lực mới. Cùng lúc đó, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang sau khi đánh được họ Đoàn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh phóng hỏa đốt kinh đô rồi chạy về Lý Nhân (Hà Nam).

Song lực lượng họ Trần vẫn rất mạnh. Sau hàng loạt biến cố khác, thế lực của Trần Tự Khánh ngày càng mạnh hơn, buộc vua Huệ Tông phải dựa vào họ Trần. Nhiều thế lực cát cứ lần lượt bị Trần Tự Khánh đánh dẹp. Tuy nhiên, bộ tướng của Khánh là Nguyễn Nộn lại phản họ Trần mà cát cứ ở Bắc Giang.

Tháng 6 năm 1217, Đoàn Thượng thấy thế lực họ Trần mạnh, tạm quy hàng triều đình, được phong tước vương và vẫn giữ vùng Hồng châu.

Sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), em họ là Trần Thủ Độ lên thay, tiếp tục thao túng nhà Lý. Thủ Độ sắp đặt đưa cháu là Trần Cảnh (con Trần Thừa) lên thay ngôi nhà Lý, lập ra nhà Trần.

Trần Thủ Độ mang quân đánh Đoàn Thượng nhưng không thắng, đành phải hứa hẹn phong tước cho ông. Thủ Độ định ngày hội họp, làm lễ minh thệ, nhưng Đoàn Thượng không đến họp.

Năm 1228, Đoàn Thượng bị sứ quân Nguyễn Nộn đánh bại và bị giết chết. Năm đó ông 45 tuổi. Con ông là Đoàn Văn đem gia thuộc đến hàng Nguyễn Nộn. Tuy nhiên chỉ 1 năm sau, Nộn cũng ốm chết. Cả nước thống nhất về tay nhà Trần.

Đoàn Thượng (1184-1228), (đời 9 – 1)

Đoàn Thượng (1184-1228), sinh ngày 10 tháng Giêng năm Giáp Thìn (1184) đời Lý Cao Tông.
Lý triều tiền chỉ thụ, Hải Đông trấn thủ Hồng Châu lộ, Đông Hải Đại Vương, Bảo dân nhất đẳng thần,
Theo ngọc phả ở Hải Dương và Sử sách, thống nhất ghi cụ người làng Thung Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (ngày nay). Cụ là hậu duệ đời thứ 5 của cụ Đoàn Khâm, là một vị tướng tài cao, chí lớn và đức độ (vào cuối đời vua Lý Cao Tông (1176 – 1210) và đầu thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam)
Thân phụ của ngài là Đoàn Thiện Hổ, tự Phúc Trung. Thần tích của làng Định Công (Hà nội) ghi là Đoàn Hiền, Đại tướng nhà Lý làm Thái sư Tể phụ triều vua Lý Cao Tông.
Thân mẫu của ngài là Nguyễn Thị Thái, người làng Bổng Độ, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu (Ngọc phả đình Gia viên, Hải Phòng); Ngọc phả làng Trương Xá – Hưng yên lại chép là Nguyễn Thị Khang, người làng Xuân Độ, huyện Gia Phúc (Bổng Độ là tên thời Lý, Xuân Độ là tên thời Lê của làng Thung Độ, nay thuộc xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương); Thần phả đình An Câu (Phù Cừ, Hưng Yên) chép là Nguyễn Thị Phương.
Nghĩa phụ của ngài là đại thần Hà đê sứ Đoàn Công Phúc Lãnh, tự Phúc Hiền, nghĩa mẫu là Lý Thị Thông, hiệu Từ Thiên
Chính thất của Đoàn Thượng sinh ra Đoàn Văn, năm Canh Thìn (1220) làm Chủ tướng giữ thành Ngọc Trục, chống Trần phù Lý, lập căn cứ ở vùng đất nay là xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa, Hà Nội, có đền thờ ở Ngọc Trục.
Thứ thất của ngài là Phạm Thị Đoan, người làng Gia Viên, huyện An Dương, nay là phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, TP.Hải Phòng, sinh ra Đoàn Hưng Nhượng và Đoàn Thị Châu. Tướng Đoàn Văn giữ chức Đô thống trấn thủ Vân Đồn, còn gọi là Đảo Quan (nay là huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh). Sau khi thất thủ, chạy vào Núi Ngọc, Ái Châu (Thanh Hóa) khai hoang lập nghiệp.
Khi cơ nghiệp nhà Lý đã suy đồi, nhà vua chơi bời vô độ, chính sự, hình pháp không rõ ràng, lại gặp nạn thiên tai mất mùa, đói kém liên miên, giặc cướp nổi lên khắp nơi, xu hướng cát cứ ngày một phát triển: Nguyễn Nộn tự xưng là Hoài Đạo vương chiếm cứ mạn Bắc, nhà Lý đã bị thế lực Trần Thủ Độ thao túng, mưu đồ thoán đạt. Ngài là một Trung thần đã cố sức bảo vệ và tìm cách vực dậy triều Lý, nhưng thấy không thể được vì triều đình đã thối nát, Ngài về Hồng Châu (địa bàn này thuộc Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên ngày nay) tự xưng là Đông Hải Đại Vương, tập hợp lực lượng, mong cứu dân, cứu nước và cũng để thực hiện hoài bão của mình. Trong thời gian 21 năm (1207 – 1228) quản lý đất Hồng Châu, Ngài đã có công lớn trong việc dẹp loạn, yên dân, tạo cho dân có cuộc sống no đủ, được nhân dân hết lòng ủng hộ. Trong một trận đánh không cân sức với quân Nguyễn Nộn và quân Trần Thủ Độ, Ngài tử trận. Tương truyền, sau khi mất, Ngài hiển Thánh. Vua Trần Thái Tông (1225 – 1258) đã truy phong ngài là Đông Hải Đại Vương, Thượng đẳng thần, truyền cho các địa phương tổ chức tế lễ hàng năm. Hiện đã tìm được 270 địa phương thờ ngài, trong đó có gần 100 nơi thờ Ngài là Thành Hoàng còn lại là phối thờ hoặc thờ ở đền, miếu, nghè… Đó là một sự kiện ít thấy đối với một Danh nhân quân sự, chính trị trong các thời đại.
Huyện Gia Lộc, nơi quê hương dòng họ Đoàn Thượng, ngày xưa có tổng Đoàn Bái, ngày nay có xã Đoàn Thượng là địa bàn được chính quyền và nhân dân đặt tên để ghi nhớ công lao của họ Đoàn và danh tướng Đoàn Thượng đối với vùng Hồng Châu trước đây và Hải Dương ngày nay.
Ngài có 3 người con là: Đoàn Văn, Đoàn Hưng Nhượng và quận chúa Đoàn Phúc Khuê

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *