“THỂ TỘC Tóm tắt theo thể vè “Ngũ ngôn”

(Bài thơ ngụ ngôn được trích từ tập gia phả họ Đoàn do ông Đoàn Văn Bá và Đoàn Văn Tường biên soạn, chép lại)

Tóm tắt theo thể vè “Ngũ ngôn”

Bài này do ông Đoàn………Cháu đời thứ 14 sáng tác, theo thể ngũ ngôn. Nay tôi Đoàn Văn Bá, Thư ký ban gia phả. Tuy ở tầng thứ 16, thế hệ hậu sinh, song cũng mạnh dạn đưa kiến thức kém cỏi của bản thân trộm nghĩ vừa sửa chữa lại công trình của bậc Tiên tổ.

Bỏ bớt những câu thừa, đưa vào những chữ hợp cách của Thể vè ngũ ngôn.

Bỏ những chữ không đúng nhịp “bằng” “trắc”. Chữa lại đúng nhịp và đúng khổ của vè.

Đối chiếu với gia sử và đưa bài vè lên một bộ phận của bộ phả gọi là “Tóm tắt Thế tộc” của Đại tôn trong phạm vi 10 đời của Tiên tổ, với số lượng: 142 khổ, 710 câu, 3.550 chữ.

Nước Cộng Hòa Xã Hội

Thế giới có Việt Nam

Lịch sử bốn ngàn năm

Ông cha còn để lại

Đất nước còn để lại

Chỉ nhìn xem thời đại

Mấy thế hệ loài người

Sinh ra ở trên đời

Có kim thời có cổ

Kim thịnh rồi nhớ cổ

Nhân sinh giai tự đó

Họ Đoàn ở Hải Dương

Ông Đoàn Thượng làm quan

Cùng công thần nhà Lý

Danh tướng thờ nhà Lý

Đến mười hai thế kỷ

Trần cướp Lý phiêu lưu

Ông kiên quyết không theo

Liền chiêu lập một số

Giữu uy quyền một số

Có uy danh hùng hổ

Chiếm giữ xứ Hải Dương

Đất châu Hồng xưng vương

Dựng cờ đề dĩ nghĩa

Phất cờ đào khởi nghĩa

Hai mươi năm siết kể

Thời vận cũng không cho

Thân tráng sỹ nằm co

Rồi bị Trần tiêu diệt

Tam tông đều bị diệt

Ông Đoàn Văn thảm thiết

Đổi tính ra họ Đào

Người khóc hại biết bao

Đến giữa Trần mới thoát

Đời Minh Tông mới thoát

Có hai ông oanh liệt

Đoàn Nhữ Hài quốc công

Ấn nguyên soái thụ phong

Nên đổi Đoàntrở lại

Dòng họ Đoàn trả lại

Đoàn Bá Triển nguyên soái

Lê Thái Tổ sắc phong

Dẹp giặc Ngô có công

Tham gia cùng khởi nghĩa

Phù Lê cùng khởi nghĩa

Trải bao năm xiết kể

Thái tôn đến Nhân tôn

Hồng Đức hạ sắc phong

Đoàn Bá Tuân tổng trấn

Hải Dương làm tổng trấn

Gặp vào lúc nội biến

Ngô Văn Tông nổi lên

Đánh phá vùng Hải Dương

Vua Thánh Tông chống lại

Cả triều đình chống lại.

Vua sai tướng Duy Sản

Nguyên con của Trịnh Công

Đến Hải Dương dẹp xong

Tin Bá Tuân tử trận

Mười hai người tử trận.

Cùng trong việc binh biến

Bạn tri kỷ của ông

Là Thừa – chỉ Nguyễn Công

Cũng đưa tin tử trận

Được tin cùng tử trận

Thời gian thật cơ cận

Ông sinh hạ hai người

Đoàn Bá Doãn thứ hai

Bá Khởi là con cả

Đoàn Bá Khởi anh cả

Đang trong cơn tai họa

Người em ra Văn Giang

Ở ẩn xứ Bắc Ninh

Để dựng xây cơ nghiệp

Dựng nghiệp đời nối nghiệp

Mẹ và anh bước tiếp

Bến Vị hoàng ra đi

Thuyền vượt biển tìm quê

Hướng Diễn Châu lướt tới

Lạch vạn cùng đổ tới.

Vào nghỉ ngơi thành nội

Nhờ tổng trấn Đinh công

Mọi người yên nghĩ xong

Cùng gia nô bàn bạc

Cùng người nhà bàn bạc

Từ Trãi ra phía Bắc

Vành đai giữ giặc ngoài

Mẹ là Phan Thị Ôi

Khuyên nên vào Phượng Lịch

Nên đến vùng Phượng Lịch

Đoàn người đều tha thiết

Cùng Phượng Lịch Tràng thân

Nghề đánh cá làm ăn

Dần già rồi nhà cửa

Có trâu bò, nhà cửa

Ruộng đất thành làng ở

Đóng thuế quán thuế thân

Triệu cơ được sắc phong

Nỗi danh Đoàn Bá Khởi

Hùng cường là Bá Khởi

Cùng anh hùng xã hội

Vợ là Đặng Thị Tâm

Sinh con trai hai chàng

Đều nổi danh một lúc

Đều trưởng thành một lúc.

Ở ăn càng đúng mực

Phong nhã lại tài hoa

Nghiệp nghiên bút chờ khoa

Hai ông đề thi đỗ

Cử, tú tài cùng đỗ

Đoàn Bá Đặc khi đó

Sinh con gái hai người

Thị Bồng và thị Thơm

Cùng lấy ông Tiến Đức

Nói đến ông cũng bực

Bởi vô hậu chết non

Ông Tôn Nho là em

Đặng ra công gánh vác

Việc nhà đều gánh vác.

Lấy bà Hoàng Thị Tâm

Học hành nổi tiếng tăm

Đậu đời Lê Thần tông

Bảng tú tài oanh liệt

Sống cuộc đời oanh liệt

Cuộc đời thêm thắm thiết

Sinh con một Tôn Cang

Lấy bà Nguyễn A Nương

Tên gọi là Thị Nghị

Bà tên là Thị Nghị

Nghiệp nhà theo nghiên bút

Dự thi đỗ tú tài

Sinh con được tám người

Hai chàng trai dũng lược

Hai người đều dũng lược

Cơ trời càng oan nghiệt

Bởi họ Nguyễn bất lương

Nhân mạng vẫn nằm im

Thẩm đơn không minh cứu

Oan này không minh cứu

Dân tình cũng thảm thiết

Giặc cướp nổi như rươi

Hoàng đế vẫn thảnh thơi

Bỏ dân tình thêm loạn

Xóm làng đều chạy loạn

Người em là Trạch Quỹ

Học thức nhất một thời

Phải xa lánh mọi người

Về ở nơi Minh tự

Dựng xây làng Minh tự

Người anh Nhân Tâm đó

Cùng mẹ già ra đi

Đến Nho Lâm lập quê

Nơi làm ăn sinh sống

Cùng xóm làng sinh sống

Vợ là Cao Thị Thuận

Sinh hạ được ba người

Bà Thị Hành sáng tươi

Cùng hai trai nối dõi

Dựng xây nên dòng dõi

Đường khi trong một cõi

Cuộc nội chiến Mạc – Lê

Mạc Kinh Điển lăm le

Diễn – Thanh cùng chịu lửa

Là chiến trường rực lửa

Bản làng không nhà cửa

Nguyễn Quyện bậc tài hoa

Cùng Trịnh Tùng can qua

Nên ra công bắt lính

Suất đinh mà chịu lính

Lê Trung tôn ấn định

Nhà hai người một đi

Sử sách cũ còn ghi

Cho xóm làng tàn tả

Lòng dân tình tàn tả

Ông Thiện Tâm anh cả

Ở lại nơi từ đường

Lấy con gái họ Hoàng

Chính tên là Thị Hạnh

Đều gọi bà Thị Hạnh

Sinh con trai dũng mạnh

Theo nghiên bút chờ thời

Hiệu Nhân Trung sáng ngời

Để mọi người cùng nhớ

Cho cháu con cùng nhớ

Khoa danh còn bỏ ngỏ

Kết duyên với họ Hoàng

Tên gọi là thị Dung

Làm ăn nên khấm khá

Gia gia đều khấm khá

Nhờ phúc nhà lộc tổ

Sinh con được hai người

Ông huyền Chấp thứ hai

Ông Phúc Từ anh cả

Đoàn Phúc Từ anh cả

Cuộc sống càng khấm khá

Sinh con traihai người

Ông Liêm Thuật thứ hai

Ông Thuần Tính thứ nhất

Thuần Tính là thứ nhất

Theo dinh thư phong thất

Lấy bà Đặng Minh phi

Hiệu thị Lộc dễ ghi

Để cháu con cùng biết

Nghĩa tình càng thắm thiết

Sinh con trai ba người

Ông An Tân thứ hai

Ông Đầu là Phúc Trọng

Tên anh đầu Phúc Trọng

Chàng ba đầy danh vọng

Tên gọi chính Huyền cơ

Nghiệp nhà dựng từ xưa

Nay sinh sôi nảy nở

Con ông Liêm Thuật đó

Vợ là Cao Thị Chân

Vốn tính cũng thông minh

Sinh Tất Thành Văn Lý

Con út là Văn Phúc

Con ông Đoàn Huyền Chấp

Chi Nội Mỹ phụng thờ

Luyện văn võ từ xưa

Sinh ra ông Phúc Thịnh

Tên Hiệu là Phúc Thịnh

Lấy bà Cao Thị Thiện

Sinh hạ được ba người

Ông Văn Ôn không đời

Ông hai là Thuận Lý

Tên ông là Thuận lý

Dựng nên làng Nội Mỹ

Có trí dũng tài hoa

Ông Chính Giác thứ ba

Thôn Ngọ Cao lập quán

Ngõ Cao rày lập quán.

Với Khoán đông sinh sống

Tiếp tục kế nối dòng

Sinh con trai một ông

Chính là ông Nhân Thọ

Hiệu là ông Nhân Thọ

Nay nhắc lại tiên tổ

Nguồn gốc bậc Triệu cơ

Truyền mãi đến bây giờ

Năm trăm năm có lẽ

Năm trăm rày có lẽ

Ngũ thế xưa đáng kể

Dòng họ Đoàn vẫn thờ

Chi Nho Lâm bây giờ

Thỉnh Tôn Cang là tổ

Nhân Tâm đều là tổ

Trung Thế Nhân Tâm đó

Tên gọi chính là Hằng

Kết duyên với họ Cao

Tên gọi là Thị Thuận

Bà tên là Thị Thuận

Nhờ ơn trời phúc vận

Sinh con được ba người

Bà Thi Hành sáng tươi

Thiện Tâm là con thứ

Pháp Viên là con thứ

Đời Hậu Lê khi đó

Bởi Lê – Mạc phân tranh

Con trai phải chiến chinh

Nhà đông người để góp

Thu suất đinh để góp

Muốn em trai đi học

Nên cùng phải ra đi

Bà Thị Hành dưới quê

Cùng Pháp Viên đến hội

Mẹ già cùng tụ hội

Nhằm xã Yên Lý tới

Định cư ở một vùng

An Thạch giáp quê chung

Cùng họ Mai lập nghiệp

Họ Mai cùng lập nghiệp

Ông Pháp Viên đi tiếp

Sang Trung quốc học nghề

Đạo ngoại sách còn ghi

Đậu Pháp sư loại một

Pháp sư rày loại một

Nhờ phúc nhà tươi tốt

Ông đệ nhất bây giờ

Nói ra có người ngờ

Cho chuyện là huyền thoại

Chuyện cho là huyền thoại

Di tích con để lại

Cái Ao nậy mênh mông

Âm binh đào một vùng

Một đêm thâu là được

Một đêm dài là được

Trọn sự tình sau trước

Cùng nối nghiệp cha ông

Cùng phong cách lương gia

Lấy nghề nông làm gốc

Cày ruộng rày là gốc

Họ Đoàn ta thì lập

Vị Thân tổ anh linh

Kế tự Đoàn Văn Doanh

Nên họ Đoàn từ đó

Họ Đoàn văn từ đó

Pháp Viên Trung thế – tổ

Học thức bậc tài hoa

Hay bênh vực người già

Việc can qua giúp đỡ

Lấy sức mình giúp đỡ

Lê Dụ tông khi đó

Bởi chính sự rối bời

Trịnh Cương cấm mọi người

Không được dùng đạo ngoại

Cấm tin dùng đạo ngoại

Có chiếu đòi ông tới

Vừa bước đến Kinh sư

Vua họanh học nhỏ to

Buộc tự tay ra thử

Pháp thuật rày ra thử

Cầm bút thật khi đó

Chọn mãi hết một kho

Vẽ rồng để truy hô

Điểm năm con chuyển động

Năm sắc rồng chuyển động

Lần lượt cùng biến dạng

Bay vút tận mây xanh

Cả triều nội nhìn quanh

Lưng chừng trời rồng cuốn

Xa xa nhìn rồng cuốn

Con rồng vàng nằm cuộn

Vua hỏi “Sao! Không lên?”

Rồng nhẹ nhàng đứng bên

Ông thưa rằng: “Nó đợi”

Chính vì thần nó đợi

Nói rồi ông tự cưỡi

Lưng rồng nhẹ uốn quanh

Vùn vụt nâng mình lên

Trên lưng rồng lướt tới

Tản viên sơn lướt tới

Vợ và con mong đợi

Ông quy tiên không về

Xóm làng thật thảm thê

Thờ ông là Thần tổ

Thỉnh ông làm thần tổ

Còn ông Văn Doanh đó

Sinh con một Văn Xương

Xây dựng nơi từ đường

Cùng gia tiên yên ổn

Giữ nghiệp nhà yên ổn

Gốc đạo nho kiêm tốn

Sinh đặng ba người con

Ông Văn Sủng thứ hai

Ông Văn Tầm con cả

Đoàn Văn Tầm con cả

Người con thứ ba thứ đó

Húy Văn Ngạc nổi danh

Chăm lo việc sách đèn

Để chờ khoa sắp tới

Khoa thi chờ sắp tới

Kỳ thi hương năm đó

Sủng và Ngạc đỗ luôn

Trịnh Danh vốn lồng loàn

Đưa Trịnh Sâm làm chúa

Mọi quyền hành do chúa

Đỗ tú tài một khóa

Theo Ngũ – Phúc tòng chinh

Dẹp Nguyễn lấy Phú Xuân

Tin hai ông tử trận

Tin đưa về tử trận

Ông Văn Tầm căm giận

Lấy vợ sinh hai trai

Ông Văn Huê thứ hai

Ông Văn Dực là cả

Đoàn Văn Dực con cả

Tam thôn cùng đồng bạ

Yên Lý đất tốt tươi

Dòng họ Đoàn đời đời

Để muôn năm mãi mãi

Muôn muôn đời mãi mãi

Đến đây ta nhắc lại

Ông Trạch Quỹ nhị lang

Minh tự đất huy hoàng

Truyền đời cho hậu thế

Phúc đức cùng hậu thế

Trãi bao năm siết kể

Vợ là Nguyễn Minh phi

Hiệu thị Hoán để ghi

Cho cháu con cùng nhớ

Để họ hàng cùng nhớ

Gia phong cùng ăn ở

Phong nhã lại hào hoa

Sinh con trai được ba

Anh đầu là Tiến Nhậm

Ông gọi Đoàn Tiến Nhậm

Lĩnh chức Kinh triệu quân

Trấn thủ xứ La Sơn

Đất Hà tĩnh quê ta

Sinh cháu con đông đúc

Điền viên người đông đúc

Con trai là Huệ Chiếu

Đến Quy Lăng lập quê

Miền đất lạ một nghề

Chỉ ra công quốc xới

Cùng ruộng vườn quốc xới

Sinh con trai nối dõi

Phúc Hạnh ấy là tên

Chăm lo việc sách đèn

Sinh con là Thiên Trực

Ông là Đoàn Thiên Trực

Xứ Yên Thành thảm thiết

Bởi họ Phan nổi lên

Kiêu binh cậy là anh

Cho xóm làng tan tác

Để mọi người tan tác

Muốn giữ yên làng mạc

Ông Thiên Trực đứng lên

Giữ một xứ Yên Thành

Cho dân tình yên ổn

Họ hàng đều yên ổn

Con là Đoàn Phúc Thuận

Kế tiếp giữ nghiệp nhà

Phong nhã và tài hoa

Người họ Đoàn ta cả

Dòng họ Đoàn ta cả

Đoàn nhị lang mẫu mực

Tên gọi chính Duy Tinh

Văn võ đều nổi danh

Đậu cử biền tạo sỹ

Chiếm cử biền tạo sỹ

Mạc tranh Lê mấy kỷ

Điều ông giữ biên cương

Trấn ái xứ Quảng Nam

Ngăn Chiêm Thành xúc tiến

Giữ chiêm thành Bắc tiến

Cháu con cùng một chốn

Quy tụ dựng nên làng

Đường ngàn dặm quan san

Người họ Đoàn ta cả

Có họ hàng ta cả

Chàng ba càng kiệt hiệt

Quốc tử giám xuất thân

Khoa trường đổ cử nhân

Chỉ thụ Vinh khang huyện

Lĩnh ấn làm tri huyện

Chính là ông Huệ Hải

Cùng xây dựng từ đường

Phải gánh vác hai đàng

Cùng tổ tiên trọn vẹn

Việc công đường trọn vẹn

Vợ là Hoàng Thị Tượng

Chính thất sinh ba trai

Đoàn Đắc Phúc thứ hai

Đoàn Bách Niên anh cả

Bách Niên là con cả

Chàng ba càng vất vả

Đoàn Đắc Danh là tên

Truyền đời chẳng có con

May thờ nơi Thuận Lý

Phụng thờ cùng Thuận Lý

Bà thứ Cao thị Đắc

Sinh Viết Yến tướng công

Quốc tử giám xuất thân

Cử Tri Hương sơn huyện

Chuyển Tri Quỳnh Lưu huyện

Ngẫm quế hòe muôn chuyện

Đoàn tộc mãi mãi còn

Công danh chẳng mỏi mòn

Đời đời cùng xây dựng

Công danh đều xây dựng

Đoàn Bách Niên khi đó

Xứ Tiên thành lập quê

Vợ là Trần Thị Nương

Cùng xây dựng cơ nghiệp

Sông nước cùng dựng nghiệp

Vọng nhi ở một vùng

Triệu cơ được sắc phong

Trùm trưởng đứng trước làng

Với non sông đất nước

Tổ tiên cùng đất nước

Hai ông bà sinh được

Trọn vẹn mười người con

Được bảy người là trai

Dẫn thêm dòng ba gái

Cùng sum vầy ba gái

Đoàn Văn Lâu con cả

Sinh con một Văn Thìn

Giữ việc nước việc làng

Cùng sum vầy hai cậu

Sinh con trai hai cậu

Ông Văn Thi nung nấu

Sông nước giữ nghiệp nhà

Ông Văn Hàn ôn hòa

Buồn vì không con nối

Buồn không trai để nối

Ông Văn Nô nung nấu

Dựng xứ ở Tân Sơn

Hòa cùng nước non trên

Đặng ra công xây đắp

Dòng họ Đoàn xây đắp

Ông thứ ba thường gọi

Ông Văn Chi là tên

Kinh triệu quân băng miền

Cùng điền viên vui vẻ

Cháu con cùng vui vẻ

Tứ lang Đoàn Văn Thặng

Buồn vì nỗi không con

Xuân xanh những mỏi mòn

Để đời người vô hậu

Không nối đời vô hậu

Ông Văn Lân kế cận

Vì việc nước ra đi

Miên mang rồi lập quê

Cũng biệt tin chưa thấy

Gia đường chờ chưa thấy

Cùng chung ta nói đến

Đoàn Văn Cẩn lục lang

Gánh vác việc xóm làng

Không có đời để nối

Không truyền đời để nối

Ông Phúc Mười con út

Phải phụng sự tổ tiên

Chưa kể giữ điền viên

Cùng lo toan việc nước

Trùm của làng của nước

Đẹp duyên cùng họ Nguyễn

Hiệu Thị Lạng còn ghi

Sinh con được ba người

Hai trai cùng nối nghiệp

Nếp xưa cùng nối nghiệp

Người anh đầu Phúc Trọng

Truyền đời cũng không con

Nguyện vì nước vì non

Đặng ra công xây đắp

Cùng sức mình xây đắp

Nữ thần tổ Thị Bé

Tuổi nhỏ đã thông minh

Chăm lo nghiệp sách đèn

Tìm nghề riêng cứu họa

Chữa bệnh trừ thảm họa

Tuổi xuân vừa hé nở

Đã nổi tiếng một vùng

Danh truyền mãi vô cùng

Đến Kinh sư vua biết

Phủ chúa cũng được biết

Lệnh chúa mời bà đến

Chữa bệnh cũ cho vua

Thuốc vừa được dâng vô

Vua uống xong bệnh khỏi

Long sàng người bệnh khỏi

Để đền ơn gấp bội

Vua gả chồng Thượng thư

Dòng hoàng tộc của vưa

Trai tài cùng gái lịch

Hòa diễm truyền gái lịch

Đồng thời vua ban Sắc

Quản bốn chục dặm sông

Đặc phong ấy của riêng

Cho cháu con cùng hưởng

Để người nhà cùng hưởng

Buồn sầu vì hoàn cảnh

Tuổi đã luống không con

Nuôi cháu nhỏ mỏi mòn

Nhưng cũng không đáp ứng

Yểu đời không đáp ứng

Ngẫm phận thân cơ cực

Bà từ giã về quê

Sách thuốc cũ còn ghi

Giúp xóm làng yên ổn

Cùng họ hàng yên ổn

Thờ bà là Thần tổ

Thật linh ứng tối linh

Họ hàng đều biết ơn

Nay nhiều chi phụng tự

Khắp họ Đoàn phụng tự

Ông Phúc Tương con thứ

Vợ là Nguyễn Thị Phi

Kiều Thị Phẩm cần kỳ

Sinh con trai được sáu

Sinh hạ rày được sáu

Chàng hai là Văn Điện

Anh đầu là Văn Ngư

Đang nối giữ nghiệp nhà

Buồn không con nỗi dõi

Bực không đời nối dõi

Ông Văn Nhưng vô hậu

Ông Văn Thản thứ tư

Ông Văn Vinh bây giờ

Ông út là Văn Quản

Lục lang Đoàn Văn Quản

Truyền đời đời vô hạn

Con cháu ở Tiên thành

Đông đúc cùng Vọng Nhi

Là họ Đoàn ta cả

Cùng họ Đoàn ta cả

Nước non về trăm ngả

Trịnh và Nguyễn nổi lên

Đoàn Đắc Phúc tới miền

Xứ Quỳnh Lưu trú ngụ

Vĩnh Yên cùng trú ngụ

Làm ăn càng khấm khá

Ông sinh đặng ba trai

Minh Đạt con thứ hai

Đạo An là con cả

Nghiệp tông đường con cả

Sinh con trai Văn Lập

Và sinh cháu Thuận Trai

Đời truyền cũng không dài

Sinh con là hai gái

Thuận Trai sinh hai gái

Ông Minh Đạt nhân ngãi

Sinh con được hai người

Ông Trọng Chất thứ hai

Ông đầu là Huyền Hội

Ông anh là Huyền Hội

Sinh con được năm người

Ông Văn Khánh con đầu

Đời có trước và sau

Kế Quốc Công Văn Thuận

Chàng ba là Văn Thuận

Ông út là Văn Thiện

Ông thứ tư Văn Chư

Nghiệp nhà dựng từ xưa

Cùng cháu con đông đúc

Sum vầy vui đông đúc

Nói đến ông Trọng Chất

Sinh con được ba người

Ông Văn Nghị thứ ba

Ông Văn Nho là cả

Đoàn Văn Nho con cả

Con ông Văn Gia đó

Nối nghiệp giữ sách đèn

Thi cử đỗ cử nhân

Thêm vinh hoa phú quý

Gia gia thêm phú quý

Ông Đắc Trinh con út

Sinh Đoàn và Phúc Tình

Đoàn tới Quỳnh Hoa sinh

Bá Hội và Huy Ánh

Giữ tông đường một gánh

Ông Phúc Tình Quỳnh Tụ

Sinh Đôn Trực, Trọng Kim

Chàng ba là Trọng Vân

Hai và ba vô hậu

Hai người đều vô hậu

Nay nói ông Viết Yến

Quốc tử giám xuất thân

Tri huyện được thụ phong

Đoàn gia thêm rạng rỡ

Dòng họ Đoàn rạng rỡ

Danh lưu truyền muôn thuở

Vợ là Lê Thị La

Sinh con trai được ba

Anh đầu là Minh Trực

Giữ từ đường Minh Trực

Hai chàng trai nối tiếp

Ông Viết Phúc, Viết Trinh

Ông Viết Phúc không con

Ông Viết Trinh Kinh Triệu

Quảng Trị miền Kinh Triệu

Gia đường con Minh Trực

Vợ là Nguyễn Thị Nghiêm

Sinh hạ hai người con

Ông Phúc Liên con thứ

Phúc Liên là con thứ

Đoàn Phúc Linh con cả

Phải phụng sự Tổ tiên

Tiền ấn quý Cai trang

Việc chung là Trùm trưởng

Việc của làng Trùm trưởng

Tính tình rất ngay thẳng

Vợ là Trần Thị Quyên

Sinh Viết Nhân, Trọng Chân

Cùng Đoàn gia muôn thuở

Dòng họ Đoàn muôn thưở

Đoàn Trọng Chân Kinh Triệu

Đến lập cứ Xuân Dương

Dựng làng mạc nước non

Đều công lao ta cả

Công họ Đoàn ta cả

Đoàn Phúc Liên khi đó

Xuống Cao Ái định cư

Miền đất lạ bây giờ

Sinh cháu con đông đúc

Giòng họ Đoàn đông đúc

Điền viên đều sung túc

Vợ là Trần Thị Hanh

Sinh con trai trưởng thành

Cùng dựng xây cơ nghiệp

Dựng cơ đồ cơ nghiệp

Ông hai là Văn Hồng

Ông đầu là Văn Khoa

Ông Văn Nhượng thứ ba

Đều anh em ta cả

Đều họ hàng ta cả

Truyền cổ xưa còn đó

Họ Đoàn tế đầu năm

Ngày họp mặt Thanh minh

Các Chi về đông đủ

Từ đường tề tựu đủ

Điểm lại gốc dòng họ

Xiết bao nỗi tự hào

Lễ Thanh minh năm nào

Cứ mười hai mà tế

Cứ tháng ba mà tế

Dòng họ Đoàn bốn bể

Cùng thờ phụng tổ tông

Con cháu dòng Lạc Hồng

Muôn muôn năm còn mãi

Muôn muôn đời còn mãi./.”

– Hết –

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *